Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của cơn đột quỵ và một số yếu tố khác, người bệnh có thể gặp phải các biến chứng của đột quỵ từ nhẹ đến nặng, xuất hiện tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Đột quỵ xảy ra khi dòng máu đi đến não bộ bị gián đoạn do tắc nghẽn hoặc nứt vỡ mạch máu não. Các tế bào não khi không nhận được oxy và chất dinh dưỡng để hoạt động sẽ bắt đầu chết chỉ trong vài phút.
Tùy thuộc vào khu vực và thời gian não bộ không nhận được lượng máu cần thiết mà người bệnh sẽ gặp phải các biến chứng tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Một số di chứng liên quan đến não và hệ thần kinh mà người bệnh có thể gặp phải sau khi bị đột quỵ:
Một biến chứng của đột quỵ thường gặp (chiếm khoảng 90% trường hợp) là liệt vận động, bao gồm các tình trạng liệt nửa người, liệt tứ chi, liệt mặt, liệt các dây thần kinh, tê bì nửa người. Co cứng cơ và đau ở chân, cánh tay có thể xảy ra ngay sau khi bị đột quỵ hoặc vài tháng sau đó.
Biến chứng đột quỵ này khiến bệnh nhân gặp khó khăn trong sinh hoạt, đi đứng. Nếu bị liệt và bắt buộc phải nằm lâu ngày, người bệnh có thể gặp phải nhiều biến chứng nguy hiểm hơn như cứng khớp, loét các điểm tỳ đè, viêm phổi, huyết khối tĩnh mạch sâu…
Viêm phổi là một biến chứng đột quỵ không thể xem thường vì có khả năng dẫn đến nhiều vấn đề về hô hấp. Tình trạng này thường xảy ra do người bệnh không thể di chuyển sau khi bị đột quỵ. Các vấn đề liên quan đến chức năng nuốt sau đột quỵ cũng khiến cho thức ăn hoặc dị vật không đi “đúng đường”, dẫn đến viêm phổi hít.
Đột quỵ có thể ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát các cơ ở miệng và họng, khiến bệnh nhân gặp khó khăn trong việc nhai, nuốt và cả nói năng.
Tổn thương tại vùng não chi phối chức năng ngôn ngữ có thể dẫn đến di chứng rối loạn về ngôn ngữ sau đột quỵ. Biểu hiện của tình trạng này khá đa dạng, như là nói ngọng, nói lắp, thay đổi âm điệu, gặp khó khăn khi diễn đạt bằng lời nói, thậm chí là không nói được. Một số bệnh nhân cũng mất khả năng đọc và viết.
Sau khi trải qua cơn đột quỵ, người bệnh thường gặp khó khăn trong việc kiểm soát cảm xúc hoặc có thể phát triển thành trầm cảm. Biến chứng đột quỵ này có thể xảy ra do những vấn đề về rối loạn giấc ngủ, khó khăn trong giao tiếp, trở ngại trong hoạt động thường ngày khiến người bệnh cảm thấy tự ti, mặc cảm.
Huyết khối (cục máu đông) có thể hình thành trong các tĩnh mạch ở chân do tình trạng bất động, vận động hạn chế sau đột quỵ. Nếu cục máu đông vỡ ra và di chuyển trong mạch máu đến các cơ quan khác như phổi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.
Người bệnh đột quỵ thường bị rối loạn cơ vòng. Bên cạnh đó, rối loạn cảm giác và nhận thức cũng góp phần khiến việc kiểm soát chức năng tiểu tiện khó khăn hơn. Kết quả là người bệnh có thể đi tiểu không tự chủ.
Ở những bệnh nhân không kiểm soát được chức năng bàng quang sau đột quỵ, bác sĩ có thể đặt ống thông để dẫn lưu nước tiểu ra ngoài. Điều này làm tăng nguy cơ nhiễm trùng tiểu nếu bệnh nhân không được chăm sóc và vệ sinh tốt.
Đột quỵ thật sự nguy hiểm. Bởi bệnh không chỉ có nguy cơ gây tử vong tức thì mà nguy cơ này vẫn duy trì ở mức cao ngay cả khi bệnh nhân đã được cấp cứu thành công, đặc biệt là trong vòng vài tuần sau cơn đột quỵ. Một nghiên cứu về khả năng sống sót sau đột quỵ cho thấy, nguy cơ tử vong trong 4 tuần – 12 tháng sau cơn đột quỵ đầu tiên có thể lên đến 18,1%. Sau năm đầu tiên, nguy cơ tử vong hàng năm là khoảng 10%.
Nguy cơ tử vong tích lũy ước tính sau 5, 10 và 15 năm bị đột quỵ lần lượt là 60%, 76% và 86%.
Nguyên nhân tử vong ở những bệnh nhân từng đột quỵ phần lớn liên quan đến các bệnh mạch máu, nhất là bệnh mạch máu não. Ngoài ra, người bệnh sau đột quỵ có thể tử vong do các bệnh lý khác như thiếu máu cơ tim, ung thư, tai nạn hay do tử tự.
Hy vọng những thông tin trên Bowtie đã giúp bạn biết bệnh đột quỵ nguy hiểm thế nào. Không chỉ gây ra những biến chứng nghiêm trọng mà bạn còn có khả năng chết vì đột quỵ. Do đó, hãy học cách tự chăm sóc sức khỏe của bản thân, thay đổi lối sống để phòng ngừa bệnh hết mức có thể.
© 2024 Bản quyền thuộc Bowtie Vietnam Company Limited.