Vậy bệnh giang mai giai đoạn 1 là gì? Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai giai đoạn đầu ra sao? Ở giai đoạn này, bệnh có nguy hiểm không và có chữa được không? Để làm rõ những thắc mắc trên, mời bạn cùng Bowtie theo dõi các nội dung trong bài viết dưới đây nhé.
Giang mai là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn Treponema pallidum gây ra. Ngoài lây truyền qua đường quan hệ tình dục, vi khuẩn giang mai cũng có thể lây từ người sang người thông qua việc tiếp xúc với các tổn thương trên da và niêm mạc, sử dụng các đồ dùng bị nhiễm vi khuẩn, qua đường máu hoặc từ mẹ truyền sang con.
Quá trình phát triển của bệnh giang mai được chia thành 4 giai đoạn. Trong đó, giai đoạn 1 là giai đoạn đầu của bệnh giang mai. Nếu không được phát hiện và điều trị ở giai đoạn này, bệnh có thể diễn tiến sang các giai đoạn sau, bao gồm giai đoạn 2, giai đoạn tiềm ẩn (giai đoạn kín) và giai đoạn 3 (giai đoạn cuối).
Bệnh giang mai có sự tiến triển theo từng giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn, các triệu chứng cũng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, các dấu hiệu của bệnh không phải lúc nào cũng xuất hiện theo đúng thứ tự các giai đoạn mà có thể chồng chéo lên nhau. Trong nhiều trường hợp, người bị giang mai không có bất kỳ triệu chứng nào trong nhiều năm.
Dù vậy, đa số bệnh nhân giang mai giai đoạn 1 sẽ nhận thấy một biểu hiện chung, đó là xuất hiện một hoặc nhiều vết loét nhỏ, không đau trên da hoặc niêm mạc, hay còn được gọi là săng giang mai. Săng giang mai được mô tả là một vết trợt nông, hình tròn hoặc bầu dục, màu đỏ thịt tươi và có nền cứng. Bệnh nhân có thể bắt đầu nhận thấy các tổn thương này sau khoảng 9 – 90 ngày nhiễm bệnh, trung bình là 21 ngày.
Các săng thường xuất hiện tại vị trí mà vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Nữ giới có thể nhận thấy các vết loét ở môi lớn, môi bé và mép âm đạo. Trong khi đó, săng giang mai ở nam giới hay gặp tại quy đầu, miệng sáo, bìu và dương vật. Ngoài ra, nếu bệnh nhân quan hệ tình dục theo đường hậu môn hoặc miệng thì săng cũng có khả năng xuất hiện ở niêm mạc miệng, môi, lưỡi… hoặc hậu môn.
Trên thực tế, các săng giang mai có thể ẩn sâu trong âm đạo, hậu môn hoặc trực tràng. Do đó, không phải ai bị giang mai cũng phát hiện bệnh ở giai đoạn đầu.
Dù được điều trị hay không, săng giang mai cũng sẽ biến mất trong vòng 3 – 10 tuần. Tuy nhiên, nếu không được điều trị thì bệnh sẽ chuyển biến sang giai đoạn nguy hiểm hơn. Ngoài ra, một dấu hiệu của bệnh giang mai giai đoạn đầu khác mà bệnh nhân có thể gặp phải là sưng hạch vùng bẹn. Hạch có thể sưng to, tạo thành chùm, trong đó có một hạch sưng to nhất.
Nhìn chung, ở giai đoạn đầu, xoắn khuẩn giang mai chỉ mới xâm nhập vào cơ thể và thường chưa gây nhiều tổn thương cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe. Vì vậy, bệnh giang mai giai đoạn 1 được xem là không quá nguy hiểm.
Tuy nhiên, nếu bệnh nhân không phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời, giang mai có khả năng tiến triển sang các giai đoạn sau. Lúc này, nguy cơ gặp phải biến chứng giang mai sẽ tăng lên.
Theo đó, xoắn khuẩn giang mai có thể gây tổn thương vĩnh viễn đến nhiều cơ quan trong cơ thể, chẳng hạn như não, thần kinh, mắt, tim, xương khớp… Điều này khiến bệnh nhân gặp phải nhiều biến chứng như mất thị lực, mất thính lực, liệt dương, viêm khớp xương, tổn thương nội tạng, biến chứng trên thai kỳ và thai nhi hay thậm chí đe dọa trực tiếp đến tính mạng.
Để chẩn đoán bệnh giang mai nói chung và giang mai giai đoạn 1 nói riêng, bác sĩ có thể chỉ định cho bạn thực hiện các kiểm tra, xét nghiệm sau đây:
Xét nghiệm nhanh được sử dụng rộng rãi để sàng lọc giang mai trong cộng đồng, đặc biệt với những đối tượng có nhiều nguy cơ. Xét nghiệm này cho kết quả xác định kháng thể kháng giang mai trong 10 – 15 phút (độ nhạy từ 85 – 98% và độ đặc hiệu từ 93 – 98%). Ba loại xét nghiệm nhanh được sử dụng trong chẩn đoán giang mai là đặc hiệu, không đặc hiệu và phối hợp.
Xét nghiệm huyết thanh được chia làm 2 dạng là xét nghiệm không đặc hiệu và xét nghiệm đặc hiệu. Thông thường, huyết thanh của bệnh nhân sẽ được tiến hành kiểm tra để phát hiện các kháng thể mà cơ thể tạo ra nhằm chống lại tình trạng nhiễm trùng. Trong một số trường hợp, mẫu huyết tương hoặc dịch não tủy cũng có thể được sử dụng.
Các xét nghiệm không đặc hiệu phổ biến là RPR và VDRL. Trong khi đó, các xét nghiệm đặc hiệu thường gặp là TPHA, FTA abs và TPPA.
Các xét nghiệm trực tiếp thường được sử dụng để chẩn đoán bệnh giang mai giai đoạn 1 là xét nghiệm khuếch đại axit nucleic, xét nghiệm tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen và xét nghiệm tìm kháng thể huỳnh quang trực tiếp.
Như đã đề cập, ở giai đoạn đầu của bệnh giang mai, vi khuẩn chưa làm tổn thương sâu đến các cơ quan trong cơ thể. Vì vậy, bệnh giang mai giai đoạn 1 có khả năng được chữa khỏi hoàn toàn mà ít để lại biến chứng.
Điều quan trọng là người bệnh cần phát hiện sớm và điều trị bệnh hiệu quả trong giai đoạn này. Trì hoãn việc thăm khám và điều trị càng lâu thì bệnh càng trầm trọng và nguy cơ gặp phải biến chứng càng cao.
Giai đoạn 1 được xem là giai đoạn sớm của bệnh giang mai. Vì vậy, nếu tuân thủ theo đúng phác đồ điều trị của bác sĩ, bệnh nhân có khả năng kiểm soát và chữa khỏi bệnh cao.
Theo đó, phác đồ ưu tiên được sử dụng để điều trị giang mai giai đoạn 1 là dùng benzathin penicillin 2,4 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu bằng một liều duy nhất. Nếu không có benzathin penicillin, các phác đồ điều trị thay thế sẽ là:
Trên đây là thông tin chi tiết về bệnh giang mai giai đoạn 1. Ở giai đoạn này, bệnh có khả năng chữa khỏi rất cao. Vì vậy, nếu nhận thấy các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai giai đoạn đầu, bạn hãy đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám và điều trị sớm nhé.
© 2024 Bản quyền thuộc Bowtie Vietnam Company Limited.